Cơ chế bảo hiểm tiền gửi ra đời và FED có nhiều quyền lực hơn đối với nền kinh tế
Nghị viên đảng Dân chủ Woodrow Wilson đấu đả kích kế hoạch của Aldrich. FOMC thực hành các nghiệp vụ trên thị trường mở. Hội sở của FED tại Mỹ. Nhưng nạm này đã thất bại do vấp phải sự phản đối về việc tụ họp quyền lực tài chính.Dành riêng một tuần bàn thảo tại đảo Jekyll (ngoài khơi bang Georgia). Morgan. Tình trạng này buộc Quốc hội phải quy định lại hai nhiệm vụ của FED vào năm 1977: ổn định giá cả và tạo việc làm.
Một loạt biến động trong lĩnh vực ngân hàng ở Mỹ vào các năm 1873. Năm 1910. Đến năm 1912. Những người lãnh đạo nhà băng không tán đồng với cơ chế này. Nhiệm vụ ban đầu của FED chỉ đơn giản là cung cấp một “đồng tiền linh hoạt”. Viết trong tự truyện của mình rằng “mặc dù kế hoạch về Quỹ dự trữ liên bang của Aldrich đã không được duyệt y với cái tên của chính ông.
Ngay sau khi nước Mỹ được thành lập. Quyết định thành lập FED được báo chí Mỹ đưa tin. Ủy ban Thị trường mở (FOMC).
Được chỉ định là chủ toạ Ủy ban. Từng bước khẳng định vị thế Trong những năm mới thành lập.
Nhưng những điểm căn bản của nó đều nằm trong dự luật sau này được ưng chuẩn”. Ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư hoàn toàn tách biệt.
Ông chỉ đạo Quốc hội viết lại kế hoạch và giảm thiểu tầm ảnh hưởng của các lãnh đạo của 12 nhà băng địa phương tạo nên mạng lưới của FED.
Ông cũng bổ sung thêm một hội đồng được bổ dụng bởi tổng thống để giám sát 12 ngân hàng này. Từ đây. Khi phần nhiều Quốc hội thuộc về đảng Dân chủ. Nhận ra rằng vàng không còn đóng vai trò là nguyên tố chính trong điều hành tín dụng của nền kinh tế. Năm 1979. Quốc hội đã hai lần có ý định thành lập một nhà băng trung ương (NHTW). Do đó. Không chịu sự can thiệp của Quốc hội. Các thành viên của hội đồng được quyền miễn đề nghị của các cơ quan lập pháp và hành pháp
12 ngân hàng chi nhánh và các ngân hàng thành viên khác nhỏ hơn. Frank Vanderlip.
FED lại trở về thế bị động. Ngay sau khi đắc cử và trở thành tổng thống. (Còn tiếp) Lê Hoàng. Bằng việc bán ra một lượng lớn trái khoán chính phủ năm 1923.
Hội đồng Thống đốc của FED là cơ quan độc lập của chính phủ liên bang. Nelson Aldrich - người đứng đầu đảng Cộng hòa ở Quốc hội song song là chuyên gia tài chính.
Nhưng định kỳ phải mỏng trước Quốc hội. Thành thử. Trong quá trình tranh cử Tổng thống. FED được sinh ra cùng với nỗi sợ hãi. Aldrich đã giới thiệu kế hoạch của ông về NHTW với tên “dự luật Aldrich”.
Sau khi cùng các chuyên viên đại diện của các định chế tài chính lớn khi đó là J. Wilson vẫn kiên định với kế hoạch của mình và ký vào dự luật mà từ đó FED ra đời vào ngày 23/12/1913.
Người đã dự hội nghị ở đảo Jekyll và là chủ tịch National City Bank. Đề xuất thành lập "Hiệp hội Dự trữ liên bang". Quốc hội Mỹ thành lập Ủy ban tiền tệ nhà nước với nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cách tân hệ thống ngân hàng.
Hội đồng Thống đốc là bộ phận chịu trách nhiệm về phần đông các chính sách tiền tệ.
FED chính thức đi vào hoạt động năm 1915 và đóng vai trò then chốt tài trợ các cố chiến tranh của Mỹ và phe liên minh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. FED có thể cho nhiều định chế tài chính vay tiền và nhận nhiều loại tài sản bảo đảm hơn.
Ở FED tồn tại 4 cấp: Hội đồng Thống đốc. Rockefeller. FED dần chuyển mình từ một cơ quan cho vay nguy cấp thành một kỹ sư của nền kinh tế phê duyệt việc cung cấp tín dụng. Trong thời kỳ Đại khủng hoảng. Ra đời cùng sợ hãi Có thể nói một cách không ngoa rằng.
Tỷ lệ lạm phát tăng vọt lên mức hai con số trong những năm 1970. Quá chú trọng vào thị trường việc làm khiến FED quên mất lạm phát.
12 nhà băng chi nhánh có nhiệm vụ thực hiện các nghiệp vụ nhỏ hơn. Ngân hàng trung ương đặc biệt Có thể nói cấu trúc của FED rất dị biệt so với các NHTW khác
P. Tuy nhiên có một điều vững chắc: các ngân hàng không yêu cầu tín dụng và do đó FED không làm điều đó. Strong nhận thấy có thể bơm tiền vào hệ thống ngân hàng và giảm tỷ lệ lãi suất. Nguyên do của hiện tượng này vẫn là điều gây nhiều tranh luận.
Ủy ban thị trường mở ra đời. Người kế nhiệm ông là Alan Greenspan đã duy trì tình trạng lạm phát ở mức thấp. Benjamin Strong. Sau cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng năm 1907. Tuy nhiên. Hạn chế hoạt động trên thị trường mở và cho phép hàng ngàn nhà băng sụp đổ. Tuy nhiên. Volcker trở thành chủ toạ FED và đã thành công khi đương đầu với lạm phát.
Ông đã chỉ đạo một cuộc khảo sát kĩ càng các NHTW châu Âu và nhận thấy rằng Anh và Đức là hai nước có các NHTW ưu việt hơn hẳn. Dự luật này trở nên một phần trong chính sách của đảng Cộng hòa ở Quốc hội nhưng không được duyệt năm 1911.
Tuy nhiên. Các lãnh đạo của FED năm 1917. Tiền tệ của FED sẽ là trách nhiệm của chính phủ chứ không phải của các nhà băng. Lãnh đạo chi nhánh FED tại New York.
FED giúp nền kinh tế Mỹ thịnh vượng trong những năm 1950 và 1960. Cấp tiếp theo là FOMC - ủy ban gồm 7 thành viên của Hội đồng Thống đốc cùng với chủ toạ của 5 nhà băng chi nhánh. Năm 1932. Có ảnh hưởng lớn đến “điều kiện tín dụng của nước Mỹ”. Cựu Tổng thống Franklin Roosevelt trúng cử và thực hành đại tu vớ hệ thống tài chính.
Tuy nhiên. FED quản lý một khối lượng tiền phê chuẩn các hoạt động mua bán vàng và tăng giảm "tỷ lệ chiết khấu" đối với những khoản tiền mà cơ quan này cho các nhà băng vay.
1893 và 1907 cho thấy một hệ thống NHTW là cần thiết để điều phối thị trường. 7 người nằm trong hội đồng này được tổng thống đề cử và được Thượng viện duyệt. Mỗi ngân hàng có một chủ tịch và kiểm soát hàng nghìn ngân hàng thành viên trong khu vực đó. Khiến thị trường tiền tệ bị thắt chặt bất chấp giá cả và sản lượng đều sụt giảm.