Thực tại, các tranh chấp về môi trường tại Việt Nam đang càng ngày càng gia tăng. Quá trình công nghiệp hóa đang làm cho môi trường bị ô nhiễm trầm trọng tại nhiều nơi, làm suy giảm chất lượng cuộc sống, gây tổn hại sức khỏe, sinh sản của người dân. Tuy nhiên, các tranh chấp vẫn cốt tử được giải quyết dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp gây ô nhiễm. Trong khi đó, vẫn chưa có một cơ chế bảo vệ người dân khi có xung đột pháp lý. Theo ông Lê Minh Đức, đại diện Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công nghiệp, phần nhiều các vụ ô nhiễm, thiệt hại là do người dân và báo chí phát hiện và các vụ việc chỉ được coi xét giải quyết khi người dân gây áp lực buộc chính quyền vào cuộc. Tuy nhiên, các vụ khiếu kiện thường bị kéo dài, giải quyết không dứt điểm, chưa sáng tỏ trong quá trình giải quyết, chính quyền địa phương lại không đủ năng lực nên người dân đã giảm tin và buộc phải khiếu kiện vượt cấp. Luật Bảo vệ môi trường đã chỉ rõ cứ giám định thiệt hại là hồ sơ đòi bồi thường thiệt hại, các thông báo, số liệu, chứng cớ và các cứ khác liên quan đến bồi thường thiệt hại và đối tượng gây thiệt hạ”. Quy định này được cho là sự hỗ trợ hăng hái cho việc thực hành các quyền đòi bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây nên. Tuy nhiên, năng lực xác định thiệt hại ô nhiễm của Việt Nam vẫn còn yếu và thiếu, trong khi đó cơ chế bảo đảm kết quả của phương thức thương thuyết chưa được bảo đảm dẫn đến kết quả các bên không nao nức tham gia thương thuyết. Mô hình và khung pháp lý cho giải quyết tranh chấp tại Tòa án hiện chưa được xây dựng... Từ kinh nghiệm giải quyết tranh chấp môi trường ở các nhà nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ, một số giải pháp được đưa ra đối với Việt Nam là xây dựng một cơ chế hoàn chỉnh gồm đầy đủ các quy định, quy chế, quy trình và thủ tục giải quyết tranh chấp môi trường. Đặc biệt là phải quy rõ trách nhiệm cho từng cấp địa phương và đặt vấn đề môi trường ngang hàng với kinh tế. Về lâu dài, cần phải thành lập Tòa án môi trường để giải quyết những tranh chấp chuyên ngành. |