Kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định Theo UBGSTCQG, trong 7 tháng năm 2013, môi trường kinh tế vĩ mô về căn bản nối được duy trì ổn định khi lạm phát tiếp kiến được kiểm soát ở mức thấp. CPI tháng 7 tăng hơn so với tháng trước (tăng 0,27% so với tháng 6) và tăng 7,29% so với tháng 7/2012, bình quân 7 tháng tăng 6,81% so với cùng kỳ. Mặc dù lạm phát tổng thể có tốc độ tăng cao hơn so với tháng trước cũng như so với cùng kỳ (do CPI tháng 7/2012 giảm so với tháng 6/2012) nhưng nhìn chung lạm phát 7 tháng đầu năm vẫn ở mức thấp (tăng 2,68% so với đầu năm) và là mức thấp trong nhiều năm trở lại đây. Phân tích chỉ số CPI tháng 7 cho thấy tác động của chính sách tiền tệ cũng như hố xí dùng trong nước đến CPI trong tháng này là không đáng kể. Lạm phát tổng thể tăng cốt yếu do việc điều chỉnh giá (giá xăng dầu, tỷ giá) gây tác động đến nhóm liên lạc vận chuyển tăng mạnh (tăng 1.34% so với tháng trước) và giá hàng nhập cảng. Như vậy, tốc độ tăng CPI của tháng 7 so với tháng 6 (0,27%) vẫn thấp hơn dư địa cho phép trong mỗi tháng cuối năm (bình quân khoảng 0,76%). Với khuynh hướng tăng CPI như vậy, kết hợp với yếu tố giá cả hàng hóa thế giới được dự báo không có nhiều biến động từ nay đến cuối năm và sức mua trong nước vẫn còn yếu, UBGSTCQG cho rằng việc kiểm soát lạm phát theo kế hoạch đề ra cho năm 2013 đang có những thuận lợi cố định. Bên cạnh đó, sinh sản công nghiệp tiếp kiến duy trì thiên hướng hăng hái, chỉ số IIP 7 tháng đầu năm tăng 5,2%, cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái (4,8%). Đặc biệt, khu vực công nghiệp chế biến chế tạo có mức tăng trưởng khá, đạt mức 5,8% so với 4,3% cùng kỳ. Cùng với đó, chỉ số hàng tồn kho so với cùng kì năm trước đã giảm đáng kể xuống mức 8,8% (tại thời khắc 1/7/2013) so với mức 21,5% tại thời điểm đầu năm 2013. Hiện tình hình phát triển doanh nghiệp đã bước đầu có những cải thiện. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đã bắt đầu tăng so với cùng kỳ những tháng gần đây, số lượng doanh nghiệp tạm dừng hoạt động quay trở lại hoạt động cũng tăng dần qua từng tháng. Có thể nói, tăng trưởng kinh tế đã có một số dấu hiệu chuyển biến, Mặc dù vậy, đích tăng trưởng cả năm 5.5% vẫn là thách thức lớn đối với nền kinh tế. Với kết quả GDP 6 tháng đầu năm tăng ở mức 4,9%, tương đương với cùng kỳ năm 2012 (4,93%), tăng trưởng GDP của Việt Nam đang ở mức thấp so với nhiều năm trở lại đây khiến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng cả năm ở mức 5,5% sẽ gặp nhiều khó khăn. Xét theo sự đóng góp vào tăng trưởng GDP, yếu tố kéo nền kinh tế tăng trưởng trong giai đoạn giờ là khu vực dịch vụ với mức đóng góp tăng từ mức 2.23 điểm % trong 6 tháng đầu năm 2012 lên 2.51 điểm % trong 6 tháng đầu năm 2013, trong khi đó khu vực công nghiệp và nông lâm nghiệp có dấu hiệu suy giảm đóng góp vào tăng trưởng GDP (TCTK). Trong khu vực dịch vụ, phải kể đến sự bình phục của dịch vụ kinh dinh BĐS (từ mức đóng góp âm 1.3% của cùng kỳ lên mức 0.8%) nhờ những cố gắng chính sách tương trợ thị trường trong thời gian qua. Trên thị trường quốc tế, nhờ vào những thành quả về ổn định vĩ mô đạt được trong thời kì qua, niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam tiếp kiến được cải thiện. Mô tả là chừng độ rủi ro tín dụng nhà nước được đo lường bởi hệ số CDS đã giảm mạnh từ mức trên 300 điểm của cùng kỳ năm ngoái xuống quanh mức 220 điểm ngày 23/7. Cũng theo UBGSTCQG, thị trường tài chính tiền tệ tiếp chuyện được cải thiện, chừng độ rủi ro giảm bớt tạo nguyên tố ổn định hơn cho kinh tế vĩ mô. Lãi suất nhà băng giảm nhiều so với cuối năm 2012, cùng với đó, thanh khoản của hệ thống được cải thiện tốt hơn nhiều so với tuổi trước (hệ số LRD - cho vay/tiền gửi tiếp chuyện giảm); tỷ giá tuy có biến động trong một thời gian ngắn sau khi NHNN điều chỉnh tỷ giá chính thức nhưng cốt là do yếu tố tâm lý. Sau động thái điều chỉnh tỷ giá chính thức 1% của NHNN vào ngày 28/6, thị trường ngoại hối vẫn có những biến động khá mạnh. Tuy nhiên, đây chỉ là những “dư chấn” tâm lý của đợt điều chỉnh trên. Bên cạnh đó, cũng có một số căn do khác gây tác động nhẹ đến thị trường như: Nhu cầu thăng bằng, điều chỉnh dạng ngoại hối của các NHTM và các doanh nghiệp; Các nhà đầu tư nước ngoài điều chỉnh danh mục đầu tư và chốt lời, cụ thể, tính từ tháng 6 đến nửa đầu tháng 7, nhà đầu tư nước ngoài đã rút xấp xỉ khoảng 450 triệu USD trên thị trường trái phiếu cũng như khoảng gần 100 triệu USD trên thị trường cổ phiếu. Tuy nhiên, theo nhận định của UBGSTCQG, sự biến động này chỉ mang tính tạm thời và cung - cầu ngoại hối trên thị trường trong những tháng cuối năm vẫn ổn định, dự trữ ngoại tệ tiếp tăng khá. Tổng cầu nội địa tạo lực cản cho tăng trưởng Xét về tổng cầu, trong bối cảnh tiêu dùng nội địa suy giảm, xuất khẩu đang là động lực quan trọng cho tăng trưởng với kim ngạch xuất khẩu tăng khá và tốt hơn so với một số nước trong khu vực, chính yếu nhờ sự đóng góp của khu vực doanh nghiệp có vốn FDI. Nếu so với cùng kỳ năm trước, trong 5 tháng đầu năm XK của Singapore giảm 4,5%, NK giảm 6,5%. XK của Trung Quốc trong tháng 6 giảm 3,1%, NK giảm 0,7%. XK của Malaysia trong tháng 5 cũng giảm mạnh 6%, NK giảm 2,3%. Có thể thấy sự suy yếu của cầu nội địa đang tạo lực cản đáng kể cho tăng trưởng. Sinh sản của nền kinh tế thành ra tiếp kiến phải chịu sự chi phối lớn từ chuồng chồ dùng bên ngoài. Phân tích chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) được HSBC đưa ra trong tháng 6/2013 cũng cho thấy khá rõ về nhận định này. Cụ thể, khi lượng đơn đặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong tháng 6 sụt giảm, chỉ số PMI đã có tháng thứ 2 liên tiếp giảm dưới ngưỡng 50 điểm và ở mức thấp hơn tháng 5. Quan sát chỉ số PMI-HSBC trong tháng 5/2013 có thể thấy, lượng đơn hàng xuất khẩu vẫn đạt mức trên 50 điểm, tức là vẫn tăng so với tháng trước nhưng cũng không đủ bù đắp cho sự sụt giảm của đơn hàng nội địa vốn luôn ở mức thấp kể từ đầu năm. Điều này cho thấy nền kinh tế sẽ khó có thể thực sự bình phục ổn định khi cầu trong nước không được cải thiện. Theo đánh giá của UBGSTCQG, căn do chính khiến tổng cầu suy yếu là do tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt thấp. Theo đó, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 6 tháng đầu năm 2013 chỉ đạt 29,6% GDP, thấp hơn khá nhiều so với cùng kỳ năm 2012 (34,5% GDP). Theo UBGSTCQG, cần hội tụ chỉ đạo điều hành để đảm bảo đích tổng vốn đầu tư xã hội tăng khoảng 12-14% so với 2012. Xét trên nền móng kinh tế vĩ mô, lạm phát được kiểm soát tốt và còn dư địa cố định cho việc tiếp chuyện điều chỉnh giá (giá điện, than, dịch vụ công) theo nguyên tắc thị trường và ứng dụng tỷ giá linh hoạt. Tuy nhiên, khung thời kì từ nay cho đến cuối năm không còn nhiều nên cần phải có lịch trình điều chỉnh cụ thể, liều lượng ăn nhập và thời khắc cũng cần phải tính toán hợp lý để tránh dập dồn, gây ảnh hưởng tâm lý cho thị trường. - UBGSTCQG khuyến nghị. Song song, trong tuổi tới công tác điều hành chính sách cần tiếp tục kiên định với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô nhằm củng cố niềm tin của thị trường và các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, trong những tháng cuối năm, cần ưu tiên tương trợ sinh sản và tăng trưởng một cách hợp lý, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong nước phê chuẩn việc đẩy nhanh các gói chính sách tương trợ một cách kịp thời, đồng bộ và đủ liều lượng. Cụ thể, quyết liệt đẩy mạnh tiến độ thực hành quyết nghị 02 của Chính phủ; Kịp thời điều chỉnh liều lượng các giải pháp tương trợ nhằm giúp chính sách nhanh chóng thẩm thấu vào nền kinh tế, bảo đảm “điểm rơi chính sách” chính xác, tránh chậm trễ trong việc điều chỉnh tạo nên tình trạng thiếu vốn đầu tư khiến mục tiêu tăng trưởng năm nay khó thực hành nhưng lại tạo hệ lụy gia tăng lạm phát trong các năm sau. (T.Hương) |