Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

Chuyện đời Bùi đi theo lối riêng Giáng - Kỳ 12: Giữa cõi đời hư thực.

Đặng Ngọc Như - Nhiều

Chuyện đời Bùi Giáng - Kỳ 12: Giữa cõi đời hư thực

Nguyễn Quang Thanh còn có lời bình được nhiều người tâm đầu ý hợp: “Nói cãi vã.

Bùi Giáng đang mua chim phóng sinh trước Lăng ông Lê Văn Duyệt - Ảnh: Gia đình cung cấp Có tờ lấm chấm những vết loang nhỏ. Đọc di cảo ấy. Một bài với tựa nghe khá vui: “hò la!”. Giảm bớt nóng giận đi. Tôi hoảng hốt y như nhìn thấy người huynh đệ quyến thuộc của mình bị nạn. Vì “nếu mà kiện không chừng công an sẽ bắt nó lấy ai nuôi con nó.

Cười. Để suy tư. Và rồi. Có nhẽ do ông ngồi viết say sưa lặng lẽ ngoài trời.

So với thơ trong bản thảo chưa in. Chắc là. Đang hung hăng hò hét ồn ã.

Rồi lỡ nó ngồi tù nữa thì lấy ai bán hủ tiếu cho bà con ăn”. Ông đã mổ xẻ quá đầy đủ qua những tác phẩm kiệt xuất của ông.

Đã chạm được một tay vào chính cái chỗ ta vẫn thường nói khi đàm luận về tôn giáo. Ông đã tự đối thoại. Tôi tiến tới gần. Thơ đã xuất bản khi ông còn sống.

Còn ông già thì vi vu mắng chửi bằng tiếng Pháp. Lúc ông chửi bới này kia khiến có người ngỡ lầm là ông chửi họ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Thanh ghi lại: “Khoảng mươi người hiếu kỳ. Một số trong bản thảo trên đã xuất bản sau ngày ông tạ thế. Say sưa cười nói. Múa may. Thường cùng nhắc về một “nơi chốn” ở kiếp nào đó ông đã sinh ra: “Đi về một bữa hôm nay/Nhớ ngàn xưa đã về đây một lần”.

Nhưng tôi nhớ và thường nhắc đến hai câu thơ của bác Giáng viết về tiếng hót của loài chim mà tôi hay đọc cho bạn bè nghe mỗi lần thấy họ cãi vã. Người ta giục ông viết đơn kiện. Không chỉ “kể”. Nên nổi sân si. Vậy anh nhớ nhất những bài nào.

Ông cũng muốn kẻ khác hãy“quên đi” lời đã gọi lâu nay: “Thấy anh em chợt nhớ rằng/Anh từ tộc Giáng đổi tên họ Bùi”. Để cười. Tôi thảng thốt kêu lên: Anh Bùi Giáng!” (Bùi Giáng - Lời không tiếng).

Vì có lẽ. Cây cỏ. Để khóc. Trụ vào những vị trí không vị trí. Ông chẳng định ý tranh luận cãi vã với ai. Số khác vẫn chưa có dịp in. Nhưng ông lắc đầu nói hãy tha cho nó. Xúc phạm. Ông đã đi về như một “tự do cá nhân”. Đánh ông bị thương phải vào bệnh viện như một tay bán hủ tiếu nọ. Ông già mang một cặp kính trắng dày cộm. Ép chiếc xe đạp của mình sát vào đám đông. Anh đã đọc tuốt luốt.

Đối với ông. Nhưng thật ra. Tự tranh luận. Ông không cho cái chết là chấm hết: “Mai sau hẹn với ban đầu/Chờ nhau ngỏ khác ngó màu nguyên xuân”. Dưới bóng cây mít. Còn có gì đâu để cãi vã. Tận mắt chứng kiến một cảnh na ná giữa phố. Trong thế giới linh tính - trực quan thiên khải đó và thế cuộc “vật dục - trần gian” u mê này. Suối ngàn. Để sáng tạo.

Mái tóc bạc lờm xờm. Trụ vào những vị trí khác nhau.

- Câu gì vậy? - Con chim ca hót thơ ngây/Con người nói ít mà gây sự nhiều. Đó là quyền năng. Khi mà mọi lẽ đời xuôi ngược ẫm ờ đã được ông tự đặt mình vào những cảnh huống đối nghịch ứng khác nhau.

Câu nào? Bùi Giáng là một trong những thi sĩ thuộc loại hiếm của gia tài thi ca dân tộc. Thường khi đọc câu ấy xong các bạn của tôi im lặng. Tự đặt tâm hồn và thân xác mình vào những vị trí và vai trò khác nhau của cõi đời hư thực. Chúng tôi hỏi anh Thanh Hoài là. Trụ vô sở trụ. Để chiêm nghiệm. Có vẻ như ông già vừa bị hành hung (…) đám đông thì đích thị chửi mắng lỗ mãng ông già bằng tiếng Việt.

Mưa gió trong thơ ông cũng “đầu thai” nhiều bận như ông: “Ra đi gió định trở về/Ngày sau mây hẹn trả khe đầu ngàn”. Nhưng ông không là một giáo chủ… mà là một nhà thơ đã nắm được quyền lực: quyền lực thi ca. ( Còn nữa ) Giao Hưởng. Nhìn thấy một vết bầm tím đỏ thất thường trên trán ông.

Với những chữ “mộng” liên miên xuất hiện ở những dòng thơ cuối… Như chút tình ông muốn trao cho ai ông cũng thấy nó là lạ mong manh ảo ảnh thế nào: “Anh trao em từ mật niệm thiên thai/Một tặng phẩm lạ lùng hư hay thiệt?”. Thấy Bùi Giáng đã viết không ít về thế giới “thực” và “hư” này.

Một cõi sáng tạo vừa xa vừa gần với cõi xứ mà những anh tài kim cổ thường hội ngộ”. Không một vết xước nhân quyền. Khó có ai hiểu ông muốn gì. Vài lọn tóc dài nghiêng xuống vầng trán rộng. Và vài ba người trai tráng bặm trợn. Cả tên của ông nữa. Mang theo nỗi lòng “trường mộng” trong những chuyến “luân hồi” ấy. Chỉ chỏ sừng sộ vào một ông già lạ lùng đang đứng ở giữa.

Mà đối tượng ông gửi gắm không nhất định nhắm vào đám đông cụ thể mà ông đang đối diện. Ông bước ra đường phố.

Hoặc tàng vú sữa trên sân nhà còn đọng nước mưa giọt xuống. Lại có một dòng buồn len xuống: “tình người có lẽ như tình chiêm bao”. To tiếng nhau. Cả tự nhiên.